Cái đền bằng đá lạnh ngắt như băng. Ở trong, chỉ có một chiếc bàn thờ. Trên bàn thờ, chỉ có một bát hương để không, hai bên, đứng chầu vào bát hương là hai con quạ khoang đã mổ mắt Hoàng tử.
Chị em Nhụy Mai bước vào, hơi rùng mình vì khí lạnh và cái nhìn quằm quặm của hai con quạ đang giương mắt ghê gớm ở trên bàn thờ.
Đỗ táo bạo hơn, giục chị:
Chị sợ chúng hay sao, chúng có còn sống nữa đâu! Hay lại phần bàn tay em vậy.
Nhụy Mai khẽ nói:
Không, chúng nó không chết, chúng nó còn sống rõ ràng. Được, cứ mặc chị.
Đỗ vội bảo:
Kia, chúng nó vẫy cánh, chúng nó muốn trốn hay sao? Nhanh lên, chị!
Nhụy Mai chạy lên trước bàn thờ. Hai con quạ xù lông ra và há rộng mỏ như định mổ.
Nhụy Mai tự nhiên tin rằng chúng không thể nào mổ được mình, nếu cô nắm ngay lấy chúng và đọc câu thần chú kia lên luôn một lúc. Nghĩ thế, cô không ngần ngại, không chậm trễ, nhất định đưa nhanh hai bàn tay đầy sức mạnh mà nắm ập lấy chân hai con quạ lửa chưa kịp cất lên, miệng cô liến thoắng đọc to:
Ngọc của Hoàng tử, mày phải nhả ra!
Nhưng Nhụy Mai đã lầm! Đáng lẽ, theo lời dặn của ông Thiện, cô phải nắm chặt lấy cổ chim để cho chúng nhả ngọc ra, thì trong cơn hấp tấp cô đã quên khuấy đi mất mà chỉ nắm lấy chân chúng.
Hai con quạ bị vồ, đập mạnh một cái, làm cho cựa đánh vào bàn tay Nhụy Mai, khiến cả hai bàn tay đều bị đau xước mà rời ra. Không chậm trễ, hai con quạ đều cất cánh bay đi, Đỗ dù muốn bắt lại, cũng không bắt kịp được nữa.
Nhụy Mai bỗng nhớ ra rằng mình đã lầm. Cô tự trách tính đãng trí đã làm hỏng việc, nhưng sự đã rồi, đành nói với em:
Chị quên không nắm cổ chúng. Mà em cũng hết tên bắn rồi ư?
Đỗ chép miệng mà đáp:
Hết cả rồi. Nhưng cứ đuổi theo chúng xem.
Dứt lời, cả hai chị em cùng chạy theo bóng chim bay, cả hai cặp mắt cùng rõi chăm chắm theo hai cái chấm một ngày một xa. Nhưng, tự nhiên, Đỗ nhìn thấy một con vịt giời từ đâu vừa đáp lên, bay đuổi theo hai con quạ khoang. Đỗ khấp khởi hy vọng con vịt giời ấy chính là con vật mà Đỗ đã cứu sống. Song lẽ, một con vịt giời thì đánh ngã sao được hai con quạ khoang, ấy là không kể sự rủi ro có thể hai con quạ khoang đánh chết con vịt yếu đuối ấy!
Nhưng ta cứ thử theo sát đường bay của chúng.
Hai con quạ bay đến một dải suối ngang rừng thì sà xuống mà nhả hai hạt ngọc cho rơi chìm xuống đáy nước. Bởi vì Nhụy Mai không nắm được cổ chúng, nhưng đã đọc xong câu thần chú của ông Thiện rồi. Câu thần chú linh ứng làm cho ngọc không thể ở yên được trong bụng quạ nữa.
Hai con quạ mất phép, tự nhiên hóa thành hai cái xác khô rơi theo dòng suối cuốn đi.
Con vịt giời vừa bay đến, hạ xuống, và lặn xuống nước để mò hai hạt ngọc chìm. Ấy chính là con vịt giời đã chịu ơn của Đỗ, nay tìm cơ hội để mà trả ơn. Nó ngậm hai hạt ngọc vào mỏ, lại bay trở lại trước mặt chị em Nhụy Mai mà nhả xuống, xong rồi, bay vút hẳn đi.
Nhụy Mai nhặt lấy ngọc, mừng rỡ vô cùng, vội dắt em trở về kinh đô, vào tâu với vua sự thể. Nhà vua đưa hai chị em đến bên giường hoàng tử. Nhụy Mai tự tay đặt hai viên ngọc trả vào đôi mắt đã mù. Tức thì Hoàng tử chớp mắt rồi ngồi nhỏm dậy, mắt đã lành lặn, lại sáng như sao băng, lại trông rõ sự vật, và trông rõ nhất là người con gái xinh tươi thùy mỵ ở trước mặt chàng.
Nhà vua cả khen công lao của chị em Nhụy Mai và hỏi muốn xin một đặc ân gì.
Nhụy Mai chỉ xin vua tha tội cho cha. Lời xin ấy tất nhiên là được ưng thuận. Vua cho là người con có hiếu nhất đời, nên ban cho vàng bạc châu báu rất nhiều. Song Nhụy Mai còn hưởng một hạnh phúc tốt đẹp hơn nữa, là Hoàng tử hiểu hết chuyện hai chị em cô không quản nguy hiểm để đi tìm ngọc, nên sinh lòng yêu quý và tâu với vua cha cho phép cưới Nhụy Mai làm vợ. Nhà vua, nhân dịp, cũng nhận cậu bé họ Đỗ làm con nuôi mình.
Từ đấy, Nhụy Mai thành một bà Hoàng. Nhưng tuy ở lầu son gác tía, Nhụy Mai không bao giờ thay đổi những tính nết vốn có từ hồi còn ngồi quay tơ dưới mái nhà tranh.
Còn Đỗ tuy là một vị Thế tử trọng vọng mà cậu cũng không biết kiêu hãnh với ai bao giờ. Cậu chỉ siêng năng học tập để luyện lấy cái hùng khí sau này khi tuổi đã trưởng thành.
Chỉ có loài đười ươi đầy thói xấu là không ai thương cái chết thê thảm của nó cả.
Đã vậy, nòi giống nó lại càng ngày càng bị người ta tìm hết cách trừ đi. Cho nên chúng không những đã không thể hại được người, lại còn bị người khôn ngoan hại lại.
Từ khi câu chuyện chị em họ Đỗ giết nổi đười ươi được người ta kể cho nhau nghe nhà này sang nhà khác, đời nọ tiếp đời kia, thì những người đi rừng mà phải qua cánh rừng nào thường có đười ươi lẩn lút, đều bảo nhau xỏ tay vào ống nứa như Nhụy Mai đã nghĩ ra. Cách đánh lừa thú độc ấy giúp cho khách sơn lâm thoát đười ươi làm hại nhiều lắm.
Cũng có những bọn đi săn muốn bắt sống đười ươi, nên lập mưu như kiểu cậu bé họ Đỗ. Chẳng đời kiếp nào đười ươi chữa được tính mê rượu và bỏ được các thói bắt chước loài người. Cho nên rượu để ở trong rừng, guốc vứt ở mặt đất, đười ươi ta vẫn cứ uống, vẫn cứ xỏ chân mà say sưa đi, để cho người ta vẫn cứ dễ dàng bắt trói được chúng.
Câu truyện con tườu vì thế, mới thành một trò cười. Các em nhỏ không muốn có ai cười mình, thì đừng bao giờ giống như đười ươi giữ ống, hãy làm theo cậu bé họ Đỗ và cô Nhụy Mai.