Mới về tới đầu ngõ, Cương đã nghe thấy tiếng cười, nó toang toang. Chắc là nhà có khách. Lại một con gà và một chai rượu vào đấy nữa! Cương nghĩ đến mẹ mình mà thương: bà có một thân làm nuôi những năm con với một chồng. Chỉ tìm sao cho bằng ấy cái miệng ngày một bữa đói một bữa no cũng đã đủ vất vả rồi. Lại còn đồng đóng, đồng góp, nay giỗ mai tết luôn luôn, ông Cả muốn có phải đủ lề lối, chẳng bỏ sót một dịp nào. Đã vậy lại còn khách khứa, phần nhiều là những khách sang, ông Cả đánh bạn với toàn các ông cử, ông tú, ông án ở vùng ấy hay là ở mãi đâu đâu; mọi lần có khách đến chơi, sẻn cũng mất con gà, chai rượu, không thế thì không coi được. Làm gì mà chả xiêu?. Cương nhận ra cái tiếng người khách đang nói chuyện với ông Cả chính là tiếng ông Nhất Thực. Cương ghét ông này lắm. Chính ông hôm nọ đã mách với ông Cả rằng Cương vẫn hay ra chợ kéo bễ cho anh thợ rèn để đến nỗi Cương bị cha mắng chửi. Mới nghe thấy tiếng ông, Cương đã thấy giận bốc lên ngùn ngụt trong cổ rồi. Nhưng lòng giận rất chóng đổi thành lo: Cương bỗng sinh sợ sệt, chị hãi cha thấy mặt Cương là lại mắng; những lúc ngà ngà rượu, ông Cả hay bới những tội cũ của vợ, con ra mà bắt bẻ cho sướng mồm.
Quả nhiên. Ông Cả vừa thấy bóng con, đã gọi giật vào ngay. Cương chạy đến, chắp tay chào ông Nhất, rồi rón rén đến bên cha, đợi lệnh. Ông Cả hất hàm hỏi:
Mày đi đâu về đấy?
Thưa thầy, con vừa chơi ở đằng cậu phó.
Ông Cả trợn mắt lên nạt nộ:
Có thật không?
Thưa thầy, thật ạ.
Ừ, thế thì được. Tao tưởng mày lại đi kéo bễ.
Ông Nhất cười thật to, như vừa nghe được một câu khôi hài có duyên. Cương tức lắm, nhưng vì giữ lễ, không dám để lộ ra nét mặt anh cười nhạt. Ông Cả chỉ tay vào mặt anh, dằn từng tiếng bảo:
Tao truyền đời cho mày, từ nay còn bén mảng đến chỗ lò rèn, tao bắt được thì tao chôn sống. Con nhà đâu mà sinh đốn mạt, tự nhiên lại muốn đi làm đầy tớ thằng thợ rèn để nó thí cho ngày vài bát cơm. Tao bảo thật cho mà biết: Tao nghèo thì nghèo thật, nhưng nghèo đấy, chứ có chết đói nữa, tao cũng không cho mày đi học thợ. Mày không nhớ rằng ông mày là quan sao?
Ông Nhất lại cười ha hả:
Phải! Cụ nhà ta lúc về hưu được thăng hàm án sát.
Sợ Cương không để ý ông gọi tên anh rồi mới nói tiếp:
Ông anh đấy, anh Cương ạ; ông anh là một ông án sát. To lắm, chứ có vừa đâu. Có lý nào, cháu đích tôn một ông Án lại đi học làm một anh thợ rèn? Thánh cũng không nín được cười!
Ông Cả quắc mắt nhìn Cương bảo:
Không những người ta cười, người ta còn bảo rằng mả nhà mày mục, mày hiểu rồi đấy chứ!
Cương cúi gằm mặt như một thằng ăn cắp bị bắt được quả tang, mồm đáp lí nhí: Thưa thầy, vâng ạ! Nhưng thật ra anh chẳng hiểu tí nào; anh nghĩ đến những lời thầy giáo đã nói với anh và các bạn anh ở trường huyện, khi cắt nghĩa câu: Chỉ có người hèn không có nghề hèn và anh tự hỏi: Làm thợ rèn chẳng có ích cho đời đấy ư?
Anh Cương đáng thương của tôi ơi! Anh nghĩ vậy thật có lý vô cùng. Làm thợ rèn, cũng như làm bất cứ một nghề lương thiện nào khác, đều có ích cho đời. Mặc cho ai bảo rằng: Có thi đỗ làm quan mới rạng rỡ tổ tông, vẻ vang cha mẹ, thơm lây đến họ đương làng xóm! Chúng ta, những kẻ đã hiểu cái giá trị của sự cần lao, chúng ta nhất định tin rằng: Chẳng cứ gì phải làm quan, làm một người thợ mà biết trọng nghề, để hết tâm trí vào nghề, cố gắng cho nghề mình ngày một thêm tinh thêm khéo, cũng vẻ vang lắm lắm. Và chúng ta thành thực mong rằng: Tất cả những bạn nhỏ của chúng ta khi khoe với người ta: thầy tôi làm phu mỏ; thầy tôi làm thợ mộc; thầy tôi làm thợ giày. hay mẹ tôi dệt vải; mẹ tôi đi bán hàng; mẹ tôi đi may thuê. cũng có vẻ mặt sung sướng, tự kiêu như khi nói: cha tôi làm tổng đốc hay mẹ tôi làm bà giáo. Phải làm nghề gì thì làm, nhưng cứ làm cho hết lòng sức, thế là đáng cho người ta trọng rồi.
Nhưng đó lại là điều mà ông Cả Kim không thể hiểu. Bố ông làm quan, ông ông làm quan, cụ ông làm quan, tổ tiên ông rặt những quan là quan, cho nên đến đời ông, tuy chẳng có tài để làm quan, ông cũng chẳng chịu làm nghề gì khác. Khi cụ Án còn sống, anh em ông cứ ăn nhờ vào cái lương hưu trí của cha mà chơi bời lêu lổng, thành ra nhà chỉ có người ăn, người phá chứ không có người làm. Có tiền lưng thóc đụn mà chỉ ngồi rỗi ăn không thì cũng hết, huống chi lại là còn tiêu như ông hoàng. Vì thế nên đến lúc cụ Án mất đi, ma chay xong, của cải còn trơ lại có một mẫu vườn, dăm mẫu ruộng và một cái nhà gạch làm nơi thờ tự. Ông Hai Ngọc, người em trai ông Cả, thua bạc một chuyến bỏ làng đi. Còn ông Cả ở lại hưởng tất cả cái gia tài ấy. Giá phải người chí thú làm ăn thì bằng ấy vườn, bằng ấy ruộng, cố chăm chút cho sinh lời cũng thừa phong lưu đấy. Nhưng ông Cả đâu có phải là người có thể ngày ngày vác cuốc ra thăm đồng? Ông vẫn giữ thói ra giày vào dép, chỉ cố nắn tiếng đàn cho ngọt, uốn mấy cây cảnh cho xinh, sợ chạm tay đến cái cày, cái bừa thì mất giá trị con dòng cháu giống. Đã thế, lại nay con lợn thết ông Cử này mai vài trăm bạc hầu tổ tôm cụ Án nọ, ngày kia dăm bảy chục sửa một bức hoành mừng cụ Tuần kia mới thăng quan. Chả bao lâu, năm mẫu ruộng đã đi đời tất. Cũng may, mẫu vườn và ngôi nhà còn lại là của hương hỏa không thể cầm bán được, nếu không thế thì có lẽ bà Cả đã phải bế con đi ăn mày rồi cũng nên! Nhưng chẳng đi ăn mày thì cũng gần như rứa. Bà quần quật làm từ sáng tinh sương đến tối mịt, có khi lại còn phải thức cho đến hết quá trống canh, để kiếm gạo cho cả nhà. Làm nhiều, ăn ít, lo nghĩ quá, bà gầy tọp hẳn đi. Trông bà vừa già, vừa xấu, còm rõi, quắt queo, cả người chỉ to hơn con mèo. Mà đi thì thất thểu, hình như chân không tới đất. Cương nghĩ đến mẹ mà đau cả lòng.
Mấy tháng trước đây, Cương còn học ở lớp nhì trường huyện, cách làng anh ba mươi cây số. Ông Cả cho anh trọ ở nhà một ông Thừa, bạn ông. Vì tình thân, mỗi tháng ông Thừa lấy có ba đồng bạc tiền cơm. Cương được ăn uống sang trọng lắm. Nhưng Cương không lấy thế làm sung sướng. Bởi vì mỗi lúc được ăn cơm trắng, cá ngon, Cương không thể không nghĩ đến mẹ lúc ấy có lẽ đang ngồi thui thủi trong xó bếp cố nuốt lấy mấy bát cháo cám, có cái vị nhàn nhạt ngai ngái mà lại hơi khé cổ, đến các em rách rưới, nhếch nhác, đứa chốc, đứa lở, đứa khóc nhè nhè suốt ngày vì đói cơm. Có lúc miếng cơm tám vừa dẻo, vừa thơm, mềm như bún mà Cương nuốt chẳng trôi, chỉ vì nghĩ đến mẹ, đến em nên nghẹn cổ. Vả lại, sống trong cái gia đình sang trọng nhận cho mình trọ học, Cương thấy bị lẻ loi. Hình như ông Thừa nể bạn mà nhận Cương, nhưng trong bụng không lấy điều ấy làm vui lắm. Nhất là bà Thừa, Cương thấy bà khinh Cương ra mặt. Có lẽ vì Cương rách rưới quá không được lành lặn như lũ con nhà bà. Ngay đến lũ con này, chúng cũng ghét Cương, chỉ vì thấy Cương đen đủi cục mịch như dân thợ cày. Cương cũng chẳng ưa gì chúng; Cương đã có những người bạn nghèo của Cương.
Cách nhà ông Thừa mấy bước, có một cái lò rèn, đó là một cái lều con trống rỗng cả bốn bề, bốn cái cật tre lênh khênh đỡ hai cái mái lợp lá mía, che mưa, che nắng. Chính giữa lều là một cái đe to và bên cạnh cái đe là một cái lò đào ngay xuống đất, đầy than vụn; cái bễ gồm hai ống to như cái gốc cau, với hai cái cần nhô lên ở giữa ống, đứng sững ngay gần đấy, để thổi cho cháy than trong lò. Một cái kìm lớn, một cái búa con, vài cái búa to và một vài đồ dùng lặt vặt khác nữa để rải rác bên cạnh lò. Chậu nước mài và hai hòn đá mài đặt ở mãi chân cột trong cùng với một cái hòm gỗ xấu xí đựng những đồ làm ra. Những ngày nghỉ thì đã làm xong tất cả bài vở rồi, Cương hay đến cái lò rèn này xem. Đến lắm thành quen. Lâu dần Cương như nghiện cái tiếng bễ thổi phì phào, tiếng búa con búa lớn theo nhau đập trên thỏi sắt kêu cấc cấc, nghiện nhìn những tàn sắt đỏ hồng, bắn tóe lên như khi đốt cây bông và nhất là nghiện câu chuyện của hai người thợ. Người thợ cả, tuổi đến ngoại bốn mươi, đầu trọc lốc, da tai tái đen đen, mắt đỏ ngầu, lông mày sâu róm, hai cái ria ngoắt lên, trông dữ dội lạ thường nhất là khi bác ta quai búa, đôi môi mím lại, cái cổ gân guốc duỗi ra, bắp thịt cánh tay, vai và ngực nổi cả lên, từng gân như từng cục đá. Ấy thế mà Cương biết bác ta hiền lành đến nỗi cắt tiết một con gà cũng không dám cắt. Còn người thợ hai trẻ và mặt mũi trông dễ thương hơn. Cả hai, đối với Cương đều đã thành thân mật, nếu một người bận mài hay giũa một con dao, thì người kia chẳng ngần ngại gì mà không mượn Cương kéo bễ giùm cho một lát và Cương vui lòng làm ngay. Nhìn họ vừa đợi cho sắt trong lò chín vừa nghêu ngao hát hay đùa cười, Cương thấy vui vui, trái hẳn với những lần đi qua huyện, anh thấy ông Thừa ngồi trong bàn giấy cắm cúi viết, hay cau có gắt gỏng với những người nhà quê.
Một hôm, bà Cả phải thú thật với chồng rằng, không còn có thể cấp cho Cương mỗi tháng ba đồng để theo học nữa. Thế là Cương phải xin thôi học, theo cha về. Bấy giờ, Cương mới biết Cương đã nghiện cái lò rèn đến đâu; anh nhớ nó như người ta nhớ nhà. Cũng may ở cạnh chợ làng cũng có một cái lò rèn. Cái này cũng chẳng khác cái trên huyện bao nhiêu. Ngày ngày, Cương lại ra đấy ngồi và thỉnh thoảng kéo bễ hộ người ta một lát. Bỗng một hôm, Cương nảy ra cái ý làm Cương khổ sở quá đến chỉ còn xương với da: Tại sao Cương không tìm việc làm để đỡ một miệng ăn cho mẹ, Cương mới mười bốn tuổi nhưng khỏe mạnh hơn cả những anh đã mười lăm, mười sáu tuổi. Cương ngỏ ý ấy với mẹ và bảo:
Mẹ nói với thầy con cho con đi học thợ rèn.
Bà mẹ đã nghe rõ mồn một lời con, nhưng bà không tin vào tai bà; không thể ngờ con bà lại muốn đi học thợ rèn, bèn hỏi lại:
Con vừa mới bảo mẹ gì thế?
Con bảo: Mẹ xin thầy con cho con đi học thợ rèn.
Bà Cả dán mắt nhìn con như nhìn một thằng hóa dại.
Đứa nào xui con thế?
Cương hơi khó chịu, cúi mặt và lúng túng cắt nghĩa ý mình cho mẹ hiểu.
Thưa mẹ, không có ai xui con hết; tự ý con muốn thế. Con thương mẹ vất vả quá, đã phải nuôi bằng ấy đứa con lại còn phải nuôi con. Con muốn học một nghề để kiếm ăn.
Bà Cả hiểu lòng con, bà cảm động; bà có vẻ nghĩ ngợi một lúc lâu; rồi bà khẽ thở dài. Bà vừa xoa đầu Cương vừa bảo:
Con muốn có nghề nghiệp để kiếm tiền giúp mẹ như thế là phải lắm. Mẹ cũng mong như vậy. Nhưng biết làm sao được? Nhà ta tuy nghèo khó nhưng cũng là dòng dõi quang sang, không lẽ bây giờ mẹ để con phải làm đầy tớ một anh thợ rèn?
Cương thấy có cái gì đưa lên cổ, chính anh cũng không biết vì anh thương mẹ hay tức tối; nhưng bỗng anh nắm chặt lấy tay mẹ vừa nức nở vừa cố nói:
Mẹ ơi! Tại sao một người lao lực như mẹ mà cũng có ý khinh những nghề lao lực?
Tuy chẳng hiểu vì sao chỉ có thế mà Cương cũng bật ra tiếng khóc, bà Cả cũng thương con lắm. Bà kéo vạt áo lau nước mắt cho con và lau cả nước mắt cho bà, bởi vì chính bà tự nhiên cũng thấy rưng rưng nước mắt. Cương càng cảm động và càng khóc. Bỗng ông Cả đi chơi đâu về, mẹ con bà không kịp tránh, mãi đến lúc ông bước vào nhà, bà mới giật mình đẩy con ra, bảo:
Kìa, thầy con!
Cương vội lau nước mắt, chực quay đi. Chậm quá rồi, ông Cả trông thấy mắt vợ và con đỏ hoe và ướt nước, biết rằng vợ và con vừa khóc, ông ngạc nhiên hỏi:
Cái gì thế?
Cương cúi đầu không dám nói gì. Bà Cả cố tươi cười để lấy lòng chồng, bảo:
Ông xem đây này; con ông nó lo không làm gì mà ăn được.
Ông Cả hơi nhíu cặp lông mày; ông muốn tỏ ý không bằng lòng cho bà nuông con đến nỗi để tai cả những chuyện không đâu của nó.
Sao lại không làm gì mà ăn được! Nó đã biết gì mà lo? Ông tặc lưỡi. Nó cũng có học hành chữ nghĩa.
Bà Cả bĩu môi ra:
Chao ôi! Học hành nó thì đã ra quái gì? Vả lại chữ nghĩa. chữ nghĩa. ôi chao! Chữ nghĩa như ông đấy thì đã làm gì nên ăn?
Ông Cả trợn mắt lên. Bà Cả biết mình lỡ lời nên ngừng lại. Nhưng ông đã đỏ mặt tía tai được rồi. Ông hầm hầm nét mặt hỏi:
Thế bà bảo thế nào là không làm gì? Chả lẽ thân tôi thế này, bây giờ xắn quần móng lợn lên đi cày hay sao?
Ông đã vậy, nhưng còn con ông.
Con tôi cũng chẳng chết đói đâu mà sợ.
Không chết đói thì làm gì có gạo?
Chẳng biết trả lời sao, ông ngập ngừng một chút rồi vặn lại bà:
Thế bà muốn nó làm gì cho có gạo? Đi ăn trộm hay ăn cướp?
Cương sợ bố mẹ cãi nhau to, vội lễ phép thưa với ông Cả:
Thưa thầy, con xin thầy bớt giận. Mẹ con nói lỡ lời. Thật ra mẹ con chỉ định xin thầy cho con đi học thợ.
Không đợi con nói hết, ông Cả lại trợn mắt lên:
Đi học thợ? Hừ! Đi học thợ! Mẹ con nhà mày dạy nhau thế đấy hả? Không trách được người ta bảo đàn bà chỉ được cái ngu và tham lam. Có đời nhà nào lại muốn con mình đến lạy lục một thằng nó xách dép cho con mình không đáng.
Bà Cả cãi:
Nào ai muốn, đấy là nó đòi đấy chứ.
Nó đòi! Nó đòi thì đập vào mặt nó.
Thế ông định để nó lêu lổng chơi không à?
Chẳng chơi không thì cũng chẳng đi học thợ. Nhà tôi không có giống ấy. Ông cha tôi đều làm quan!
Nhưng con ông nó không làm quan được thì làm thợ.
Không làm thợ! Tôi bảo với bà như thế. Đừng nhiều lời nữa!
Rồi ông nói điều dự định của ông:
Đây này: Nhà mình bây giờ túng thật, nhưng giấy rách phải giữ lấy lề. Nó chả làm quan được thì cũng phải làm cái gì nho nhỏ mà có dùng đến chữ nghĩa, chứ bắt con tôi đi cày hay đi làm thợ thì tôi không chịu. Thằng Cương chẳng có tiền học hành làm thầy Thông thầy Phán, thì cũng phải làm. làm.
Ông lại thành lúng túng, vì thật ra chính ông cũng chẳng biết nếu cứ ôm lấy cái quản bút thì con ông có thể làm nên công trạng gì. Nhưng ông chợt nghĩ ra:
Ờ, có khó gì? Tôi dạy nó một vài năm chữ nho rồi bảo lão Thừa cho nó làm phụ trên huyện. Thiếu gì bổng lộc!
Cương vội hỏi:
Thưa thầy, làm nho ạ?
Ừ, làm nho.
Cương giãy nảy lên:
Không! Không! Con xin thầy.
Làm nho chẳng danh giá gì nhưng còn nhàn.
Không, con lạy thầy.
Sao vậy!
Con chịu thôi! Con xin thầy!
Cương cố chối. Đã ở trọ nhà ông Thừa mấy năm, Cương còn lạ gì những cậu nho. Đó là những kẻ học hành dở dang, nhưng lại không muốn đi cày cuốc đến xin làm giấy tờ không công cho các ông Thừa ở phủ huyện; họ chả có lương lậu gì, thường chỉ xin hay là vòi tiền của những người có việc ra vào cửa quan để kiếm ăn; giá họ biết ném phắt cái bút đi để nắm lấy cái cày, cái búa, hay cái rùi đục có lẽ còn có ích cho người đời hơn. Không! Cương chẳng muốn làm thế chút nào.
Làm thợ rèn thì có kém gì làm nho? Thầy bu cứ cho con đi học thợ rèn.
Ông Cả gắt:
Mày dở hơi như cám hấp! Làm nho phải biết chữ, còn làm thợ rèn là vì dốt nát.
Thưa thầy, thầy giáo con bảo rằng bây giờ có những người thợ giỏi chữ hơn các ông Phán, ông Kỳ. Những người có học có xoay ra công nghệ thì công nghệ mới mau phát đạt. Thầy giáo con có mấy người con trai đã đỗ bằng tốt nghiệp, đều cho học ở trường dạy làm thợ và làm ruộng cả.
Ông Cả đỏ mặt lên, đập tay xuống chiếu quát:
Mặc thầy giáo nhà mày! Còn tao, nếu mày còn thậm thụt ra lò rèn, tao đập cho vỡ đầu.
Ông Hai Ngọc, mà mọi người đã chắc là biệt tích, một hôm bỗng ở đâu lần về. Ông về, khác hẳn khi đi, chẳng còn một tí vết tích gì tỏ ra con người ấy đã là con quan; nước da sạm nắng, mái tóc hớt cao, những bàn tay xù xì. Ngọc thật đã hoàn toàn là một dân lao động quen chịu đựng gió nắng và nhọc mệt. Ngay đến quần áo ông mặc cũng có vẻ thợ thuyền lắm thay! Một cái áo tây phủ ngoài một cái áo sơ mi vải vàng có cái cổ cúp xuống như tai chó tây, một cái quần ma-ga đen và một đôi guốc bong sơn, cái quai cao su to bè bè trông thô kệch lạ. Ông Cả nhìn con người Tây chẳng ra Tây, Tàu chả ra Tàu ấy, lộc khộc đi vào ngõ nhà mình mà bỡ ngỡ tự hỏi:
Quái, không biết anh này là ai?
Trái lại, người ấy nhận ra ông không khó gì. Hắn reo lên như một đứa trẻ con, chạy gần văng đôi guốc, nhảy bổ lại như muốn vồ lấy ông. Ông hơi lùi lại, đưa một tay lên đỡ. Thì hắn đã nắm chặt lấy tay ông, lắc đến gần sái cánh và rối rít:
Trời ơi! Anh Cả! Anh Kim! Em đây mà. Ngọc đây.
Ông Cả Kim hơi đỏ mặt. Không phải ông mững rỡ. Ông xấu hổ. Đã từ lâu, ông coi thằng em liều lĩnh như người bỏ đi. Có ra gì cái thứ người đã quên cả ông cha! Theo ý ông, con người ta dù khổ đến đâu thì khổ cũng chẳng nên rời quê cha đất tổ. Hạng người phải đi tha phương cầu thực là hạng người đốn mạt. Ngọc đi biền biệt đã bao nhiêu năm rồi! Những ngày giỗ, ngày Tết, có ai chạy đến chơi, ông nghĩ mà xấu hổ. Bố mẹ sinh ra nào có được năm, được bảy gì cho cam. Độc trọi có hai người. Mà em ông nỡ lòng nào đi bặt tăm, không tưởng nhìn nhõi gì đến bàn thờ ông vải? Ông vẫn giận em ông lắm. Bây giờ thì không những ông giận. Ông hổ thẹn. Ông thẹn lây cho thằng em vô liêm sỉ ấy. Có ai, sau bao nhiêu năm mất tích, trở về làng với cái vẻ tiều tụy như thế này. Sao nó không chết chợ, chết đường đi cho rồi? Ngọc đâu có hiểu lòng anh nghĩ vậy. Thấy anh đỏ mặt thì ông tưởng anh cảm động, ông đập tay vào vai anh đồm độp, há hốc mồm ra cười bô bô, hỏi đùa:
Anh quên em rồi hả?
Bấy giờ, ông Cả mới bình tĩnh bảo:
Quên là phải. Tôi tưởng chú đã chết ở đâu rồi.
Không biết đó là lời rủa mát. Ngọc vẫn cười ngoác miệng ra đến gáy:
Không, anh ạ. Chết thì chưa chết. Nhưng e ở những nơi xa quá: ở mãi Mân, Lào, Sài Gòn kia. Có lần sang mãi Tàu.
Chú làm vương tướng gì ở những nơi xa ấy!
Làm đủ mọi nghề anh ạ. Hồi mới đi, em làm phu đắp đường.
Phu đắp đường?
Vâng ạ. Thì anh tính là thằng vô nghiệp, ai thuê gì thì làm vậy, miễn là có tiền thì thôi. Còn hơn bó tay ngồi nhịn đói. Cũng may, được ít lâu chủ thấy em biết chữ quốc ngữ cho lên làm cai. Em làm được ít lâu, có chút vốn liếng đi Sài Gòn.
Chú làm gì trong ấy?
Em bán phở.
Giời ơi! Con ông Án đi bán phở! Sao chú không đi làm cu li luôn thể.
Ngọc lại cười bô bô và oang oang bảo:
Thì quả nhiên em đã làm cu li, nghĩa là em kéo xe. Vào cái hồi em thất nghiệp ở Nam Vang. Hồi ấy thật là cực khổ. Cũng may được ít lâu sau em gặp được một người bạn dắt díu cho làm bồi.
Nghĩa là làm đầy tớ cho người ta chứ gì?
Vâng, thì làm đầy tớ. Nhưng làm đầy tớ cũng là một nghề chứ sao?
Nghề! Chao ôi nghề!
Và cái môi ông Cả dề hẳn ra. Bấy giờ, Ngọc mới nhận thấy: Mình về đây chẳng làm vui lòng anh tí nào. Ngọc sầm mặt xuống. Ông Kim đã chua chát bảo:
Thôi chú đi vào nhà. Anh vẫn tưởng chú tài giỏi hơn anh, ra đi để lập lấy thân để ngày nay áo gấm về làng cho rạng vẻ tổ tông và anh cũng thơm lây. Không ngờ chú đã làm nhục cả ông cha.
Ngọc tỏ vẻ ngạc nhiên và tức tối:
Em làm nhục ông cha? Thế em đã đi ăn trộm ăn cắp hả?
Ông Kim mỉa mai:
Không! Chú không ăn trộm. Chú không ăn cắp. Chú mỗi đi bán phở, làm cu li, làm bồi. Còn danh giá không?
Ồ! Thưa anh, danh giá thì cũng chẳng lấy gì làm danh giá, nhưng cũng là một nghề lương thiện. Nghề lương thiện thì đáng quý! Không ai có quyền khinh em.
Ông Cả đỏ bừng cả mặt:
Chú nói thế mà nghe được. Hừ!. Hừ!.
Ông muốn nói nữa, nhưng giận quá, nói không ra lời. Ngọc trấn tĩnh lại ngay. Ngọc cười để làm lành.
Danh giá hay không cũng mặc! Nhưng em đã nhớ đến anh mà về đây chả lẽ anh nỡ giận mà đuổi em ra khỏi nhà. Em có xấu thì cũng là em anh.
Câu nói ấy làm ông Kim bớt giận. Mà bớt giận tức là đang ngượng. Ông ngượng vì đã xử với em quá tệ. Ông cười xòa, bảo:
Thì vẫn vậy, anh em thì bao giờ chả là anh em. Chú đi vào nhà. Chị đi chợ chắc cũng sắp về rồi.
Cương vốn là một đứa trẻ ngoan ngoãn. Mỗi lần nhà có khách, anh không đợi cha mẹ bảo đã chạy về chào hỏi ngay. Lúc ông Ngọc vào thì Cương đang hí hoáy nặn ở một xó vườn. Anh vội vàng đi rửa tay, vuốt lại đầu và xốc lại quần áo cho ngay ngắn. Rồi anh về nhà. Nhưng mới về đến chái nhà thì ông Cả Kim và em đã sinh ra gay gắt với nhau. Cương tần ngần đứng lại. Nếu anh xồng xộc chạy vào ngay lúc ấy, sợ khách và cha mình phải ngượng. Đến bây giờ, thấy hai người quay ra ôn tồn, tử tế rồi, Cương mới về.
Thấy Cương chào, ông Ngọc hỏi ngay:
Thằng lớn nhất đó phải không?
Ông Cả Kim gật đầu. Ông Ngọc vừa giơ tay về phía cháu như ra hiệu cho cháu lại gần, vừa nheo mắt lại như cố nhớ, mồm bảo:
Yên! Tên nó là. nó là gì, quên đi mất rồi. đó là.
Ông Kim khẽ nhắc:
Thằng Cương.
Thì ông Ngọc đã vỗ tay xuống đùi đến đét mà kêu lên:
Ồ! Phải rồi! Thằng Cương. Hồi tôi đi Cương còn bé con thế này.
Cương mỉm cười. Anh có cảm tình ngay với người chú hay nói to, cười lớn ấy. Anh thấy chú Ngọc có nhiều cái giống với bọn thợ thuyền mà anh yêu. Ở người chú, ở nét mặt chú, ở những cử chỉ của chú, lộ ra một niềm vui rất tự nhiên, rất thẳng thắn, có lẽ hơi thô lỗ nhưng thực thà. Chỉ những xưởng thợ, những cánh đồng mới cho được người ta cái vui hồn nhiên ấy. Đã biết bao nhiêu lần, ngồi chơi ở lò rèn, Cương được nghe người ta kể những câu chuyện chẳng có gì là buồn cười lắm, thế mà bác phó rèn cũng nổi cười vang lên. Thì ra hạng người hoạt động, là người dễ vui. Rồi ít khi ta thấy một người thích làm việc mà buồn. Khi cái tay ta bận bịu, thì lòng ta nhẹ nhàng.
Ông Ngọc quay vào anh hỏi:
Cháu lớn quá rồi anh nhỉ? Năm nay bao nhiêu tuổi rồi?
Ông Cả đáp:
Mười bốn, mười lăm rồi đấy.
Có đi học ở trường làng không?
Nó đã học lớp nhì ở trường huyện.
Ồ! Khá nhỉ. Thế thì sang năm thi xéc-ti-phi-ca rồi đấy.
Nhưng tôi bắt thôi học rồi.
Ông Ngọc trợn mắt lên như muốn hỏi. Ông Kim thủng thỉnh bảo:
Xét ra nó cũng không có khiếu. Vả lại cho đi học mãi thì cũng tốn.
Thế bây giờ cháu có làm gì không?
Làm gì?
Ông Ngọc lại giậm chân, múa tay, sừng sộ như một người gây sự:
Sao anh không cho cháu đi học nghề?
Ông Kim không buồn đáp. Người em tưởng ông không tìm được nghề gì cho con học, hăng hái bảo:
Hay là anh cho cháu đi với tôi. Tôi sẽ gửi anh em bạn cho nó học nghề thợ nguội.
Câu nói trúng ngay vào ruột Cương. Cương muốn bám lấy chú mà van lạy chú cố xin với cha mình điều ấy. Nhưng ông Cả mai mỉa bảo:
Tôi tưởng chú cho cháu đi làm thầy Thông thầy Phán gì thì mới quý, chứ đi làm thợ thì tôi chả tội gì phải ơn.
Ông Ngọc hơi phật ý. Nhưng chẳng muốn gây chuyện với anh làm gì nữa, ông cố nén lòng, điềm đạm bảo:
Thì em cũng mong cho cháu được nên thầy Thông, thầy Phán. Nhưng sức học cháu còn non quá, thì biết làm sao được? Vả lại, xoay ra công nghệ bây giờ cũng có giá trị. Một người thợ giỏi dễ tìm việc hơn một người có bằng cao là thường.
Chuyện! Cứ thấy việc là lăn lưng vào thì làm gì mà không có việc. Có việc mà cực như trâu, như bò. Con nhà danh giá, những việc nặng nhọc người ta không thèm làm. Tội gì mà lấm tay.
Ông Ngọc đã cố nín mà không sao nín được. Những lời gay gắt hình như đầy miệng ông mà bật ra:
Em nói điều này anh bỏ lỗi. Có lẽ chỉ có người An Nam mình mới có óc khinh thường những nghề lao lực thế. Họ thà làm một anh ký khổ còn hơn làm một người thợ khéo. Cứ tưởng rằng cầm đến cái cày cái cuốc, cái dùi đục thì mất cả phẩm giá con người. Có biết đâu ở các nước văn minh, người ta quý công nghệ hơn vàng ngọc. Không ai sợ làm lụng thì mất giá trị của mình đi. Ông chủ trước của em là một ông đốc tờ, lương tháng ngót nghìn đồng bạc. Thế mà chẳng chủ nhật nào ông không ra cuốc vườn với người làm của ông.
Ông ấy cuốc chơi bời thế, không ai cười được.
Đã đành rằng vậy. Nhưng còn người con lớn của ông, ngỏ ý muốn vào trường kỹ nghệ học nghề thợ đúc, ông cho đi học liền. Mà ông cũng chẳng lo ai cười.
Nhưng con tôi mang thân đi làm thợ thì người ta nhổ vào mặt tôi.
Ông Ngọc đành cười nhạt. Cương thở dài.
Bây giờ em không làm bồi nữa. Em học được nghề lái xe. Em làm sốp phơ cho ông Bô-ti-giông. Chủ em mới đổi về Hà Nội ở đường Quán Thánh. Bao giờ anh có thì giờ rảnh mời anh ra nhà em chơi.
Trước khi từ biệt anh chị để trở về Hà Nội. Ngọc đã ân cần mời ông hai, ba lần thế. Ông cũng nhắc đi nhắc lại rằng: Ông không làm bồi nữa, để anh vừa ý. Một người đã lấy nghề nghiệp của người ta ra để đánh giá con người, chắc hẳn cho rằng, bác tài danh giá hơn cậu bồi.
Ông Kim khẽ gật đầu. Thì ông cũng gật đầu cho xong chuyện đó thôi, chứ thật ra trong bụng ông lúc ấy, ông đã thừa biết chẳng bao giờ ông bén mảng đến nhà em để làm gì. Ông nghèo thật, nhưng có thiếu gì bạn sang đâu? Đã ra đến Hà Nội, chẳng đến nhà ông Tư Đạm, ông Hàn Mai thì ông vào chơi lão Phán Lê. Mặt mũi nào rúc vào cái bếp của một ông Tây để ăn một bữa cơm của một thằng tài xế. Cho dẫu thằng tài xế ấy là em ông mặc lòng.
Nhưng hôm nay, cái gì đã làm ông nhớ đến em, Cương thấy ông cứ băn khoăn đi ra, đi lại và chốc chốc lại thở dài. Anh đoán rằng: Cha anh buồn là vì sợ mẹ anh ốm. Bà Cả dức đầu, sốt rét phải nghỉ chợ năm, sáu hôm nay rồi. Thuốc thang không có. Gạo ăn cũng đã gần càn cạn. Nếu bà không dậy được thì nguy to.
Ông bỗng hỏi:
Nhà chú Ngọc ở đường gì, mày có nhớ không Cương nhỉ?
Thưa thầy, ở đường Quán Thánh.
Hỏi nhà ông gì nhỉ?
Cương cố nhớ. Ông Cả nhắc:
Tao cũng quên đi mất. Hình như ông Bông, Bông hay Rông, Rông gì đó.
Cương reo lên:
Bô-ti-giông! Phải rồi.
Bô-ti-giông. Ừ.
Và ông lặp mãi cho thật nhớ. Cương hỏi:
Thưa thầy, thầy định ra thăm chú ạ?
Ông gật đầu. Cương đoán ông tìm chú Ngọc để vay tiền lấy thuốc. Ý hẳn thế, chứ chơi bời gì. Nhưng ông bảo:
Ra xem nó có tiền thì vay chục bạc. Mẹ mày thì nằm đấy, mà việc tao phải tiêu đến nơi mất rồi. Ông Huyện mở tiệc mừng thượng thọ bà me vừa gửi thiếp mời.
Mắt ông sáng hẳn ra. Ông có vẻ tự kiêu vì được vinh hạnh ấy. Ông tắc lưỡi:
Mình đang túng. Bây giờ chạy được cái lễ mừng cũng nhược người. Nhưng không đi thì không được.
Cương sầm mặt xuống. Thì ra ông Cả lo lắng không phải vì vợ ốm. Ông chỉ lo không chạy được cái lễ mừng để đến mừng một người bạn quan. Quan. quan. đầu ông lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chữ quan. Cái gì dính dấp đến quan là vinh dự cả. Hèn chi mà ông nhất định cho là tất cả những nghề gì không phải nghề làm quan đề đáng khinh. Cương thấy nghẹn ngào trong cổ. Cương không thương cha nữa. Cương chỉ thương cho mẹ mình.
Ông Cả lại nói, lơ đãng như nói một mình mình nghe:
Bây giờ đến nhà nó thì cũng nhục. Nhưng cùng đường đất mất rồi. Với lại. dẫu sao thì cũng là anh em! Nó túng quá nên nghĩ liều. Vả lại, ngày nay con nhà danh giá đi bồi, đi bếp, đi làm sốp phơ thiếu gì!
Ông nói câu cuối ấy với một cái dề môi mai mỉa. Vẫn với cái giọng mai mỉa ấy, ông bảo Cương:
Ngày mai, mày có muốn đi làm sốp phơ, tao cũng cho đi làm sốp phơ.
Cương cúi mặt. Ông chợt nhớ ra một điều gì, lại bảo:
À, mày đem những thằng người, với những con mèo, con chó mày nặn ra đây, tao bảo. Chẳng có cái gì cho các cháu. Tao đem ra làm quà cho chúng nó, để chúng nó mừng.
Ngừng một chút rồi ông cắt nghĩa:
Mua bánh cũng mất vài hào, móc đâu ra bây giờ?
Người bếp mở cửa cho ông Kim, rồi lấy tay chỉ về phía cuối sân:
Bác tài ở cái nhà thâm thấp bên cạnh cái nhà để ô tô ở tận trong kia kìa. Đấy, ở đằng sau cái cây bàng ấy. Ông cứ đi qua sân mà vào.
Rồi bác ta lại bảo:
Nhưng có lẽ bác ấy không có nhà. Bác ấy đánh xe cho ông chủ tôi đi làm. Ông cứ vào ngồi chờ một lát, thể nào bác ấy cũng về.
Nói xong bác xách bị ra đi chợ. Ông Kim đi thẳng vào. Ngọc đi vắng thật. Chỉ có một con bé, chừng năm hay sáu tuổi, đang ngồi trên giường với một con búp bê và một quyển sách, trố đôi mắt hau háu ra mà nhìn ông. Ông hỏi nó:
Thầy bu mày đi đâu?
Nó chỉ trừng trừng nhìn ông mà không trả lời. Ông nhìn kỹ nó. Chà! Con bé mới mập mạp và xinh sao? Hai má nó tròn và căng như hai nửa quả táo tây. Răng trắng và nhỏ như răng chuột. Môi đỏ chót. Chân tay mũm mĩm. Mà quần áo thì trắng tinh. Ông tự nhiên nghĩ đến lũ con ông: nhếch nhác, bẩn thỉu, khẳng khiu, mắt toét và suốt ngày thò lò mũi xanh. Ô! Bố nó chỉ là một anh tài xế, áo quần cũn cỡn và bàn tay xù xì, thế mà con nó được săn sóc như thế đó. Vụt một cái, ông lờ mờ thấy một chút đẹp đẽ, cao quý gì mà ông chưa nhận rõ, trong cuộc đời em ông. Ông nắm lấy bàn tay con bé.
Mày là con Hai Ngọc phải không?
Nó lắc đầu và toét cái mồm xinh xinh ra cười.
Thế mày con ai?
Con ba, con má!
Cái giọng Sài Gòn đặc! Ông chợt nhớ ra rằng: Em ông mới về Hà Nội được gần nửa năm.
Ba đi đâu, cháu?
Ba lái xe cho ông chủ.
Má?
Má đi mua đồ.
Thế cháu đang làm gì thế?
Cháu học.
Ồ! Ngoan nhỉ! Cháu đã học được rồi kia hả? Cháu thử đọc một bài cho bác nghe xem nào.
Đọc bài nào?
Bài nào cũng được. Đó, bài cháu đang xem đó.
Con bé rất bạo dạn, không cần để giục. Nó cúi xuống, dùng một ngón tay nhỏ xíu chỉ từng chữ một và líu lo đọc.
Người ta ai cũng phải có một nghề. Kẻ làm ruộng, kẻ đi buôn, kẻ làm thợ, kẻ làm bàn giấy. Những nghề ấy đều đáng trọng ngang nhau. Chỉ những kẻ vô công rỗi nghề, sống nhờ vào kẻ khác mới thật là đáng bỉ.
Tự nhiên ông Cả thấy mặt nóng lên rừn rựt. Chắc là mặt ông đỏ lắm. Con bé vẫn đọc nhưng ông không nghe thấy nữa. Mà ông cũng cố ý không nghe nữa. Ông bỗng bảo:
Ô này! Bác cho cháu cái này, này!
Và ông móc túi lấy gói đồ chơi bằng đất nặn của Cương giở ra, bày bên cạnh giường. Con bé ngừng đọc để mở to những con mắt vui thích nhìn đồ chơi. Không biết nghĩ thế nào, hôm ấy ông đã thôi không hỏi mượn tiền của em.
Từ hôm ra tỉnh về, ông Cả có vẻ buồn rầu lắm. Ông phải bỏ đám mừng nhà ông Huyện. Bà Cả thì vẫn chưa dậy được. Gạo hết. Bữa trưa hôm nay, Cương đã phải mang rá đi vay rồi. Nhưng bữa mai thì sao?
Những đứa trẻ bẩn thỉu và gầy ốm, bây giờ ông trông càng bẩn thỉu, gầy ốm thêm. Tình cảnh thật đã đến điều nhục nhã. Chao ôi! Ông có là con quan nữa thì ông cũng vẫn là người không ra gì!. Ra gì, cái hạng người vô nghề nghiệp? Ra gì cái hạng người mà cơm ăn, áo mặc chỉ biết trông vào tay đàn bà. Chao ôi! Lần này là lần đầu tiên ông có can đảm nói với ông như thế. Và ông bỗng nhận ra rằng: Em ông đáng trọng hơn ông nhiều. Em ông biết quý sự cần lao. Em ông biết đem hai bàn tay ra làm lụng để nuôi thân, nuôi gia đình, để khỏi phải ăn nhờ kẻ khác. Cái phẩm giá con người ta ở đấy. Cái phẩm giá con người đâu có phải ở chỗ mình là con quan?. Ông nghĩ đến Cương. Giá ông cứ thuận cho Cương đi học nghề! Không những ông nên thuận, ông còn phải khuyến khích Cương đi nữa. Cái bổn phận của ông chả phải là tìm cách làm cho con có một cái nghề đó ư?
Có tiếng một cái xe hơi chạy ngoài đường cái. Suy nghĩ của ông lại nhảy sang người em làm nghề lái xe. Phải đấy, ông sẽ cho Cương đi với chú. Chú Ngọc sẽ tìm việc cho Cương học, sẽ tìm việc cho Cương làm. Tiếng líu lo của con bé cháu đọc sách lại vang lên trong tưởng tượng của ông, như một lời mắng trách, ông lại thấy mặt nóng lên rừn rựt. Ông cúi đầu.
Bỗng hai, ba đứa con ông cuống quýt chạy về. Chúng vừa thở vừa cố nói:
Thầy ơi!. Thầy. ơi! Chú.
Ông quắc mắt:
Cái gì thế?
Chú Ngọc, chú ấy về.
Đâu?
Có cả ông Tây nữa.
Ông sửng sốt:
Cả ông Tây nữa à? Đâu đâu.
Đang đi vào nhà ta. Ô tô đậu ở ngoài đường cái.
Có tiếng giày lộp cộp. Ông vội chạy ra sân. Một ông Tây cao lớn đi theo Ngọc vào. Ngọc thấy anh mặt tái mét, thì mỉm cười bảo ngay:
Bác phát tài to đến nơi rồi.
Ông lộ vẻ ngạc nhiên. Người tài xế chỉ anh, nói tiếng tây với chủ rồi lại bảo:
Hôm nọ, anh đem cho con bé cháu những đồ chơi của cháu Cương nặn, cháu nó đem ra sân chơi, ông chủ tôi trông thấy. Ông ấy nhấc lấy ngắm nghía rồi khen đẹp, khen nặn khéo và hỏi tôi mua ở đâu về. Tôi bảo: Của thằng cháu tôi nó nặn. Chả biết ông ấy định thuê nó nặn niếc gì, nên hôm nay bắt tôi đánh xe đi tìm. Thằng Cương đâu?
Ông Cả cất tiếng gọi con. Cương sợ sệt lại gần chú. Ông Tây nhìn Cương chòng chọc rồi lại nói gì với Ngọc, Ngọc dịch lại cho ông Cả hiểu:
Ông ấy bảo ông ấy muốn nuôi cho Cương vào học trường mỹ thuật. Ông ấy nặn tượng tài lắm. Vậy bác có bằng lòng không?
Nửa tháng sau, cuộc gặp gỡ thuật trên này, Cương ra Hà Nội ở cùng nhà với chú. Anh được học nghề nặn tượng và được học thêm chữ Pháp và các môn học phổ thông để cái học thức của anh thêm đầy đủ.
Hiện nay, anh đã trở nên một nhà mỹ thuật có tên tuổi ở Hà thành. Những tác phẩm của anh đem dự các cuộc triển lãm ở nước ngoài, được hoan nghênh lắm. Cách đây ít lâu, có dịp ghé thăm anh, trong lúc vui câu chuyện, tôi có nhắc lại đoạn đời xưa. Anh mỉm cười bảo tôi:
Anh ạ, tôi được như bây giờ, cũng là phúc lắm rồi. Nhưng không hiểu sao, lắm lúc tôi vẫn tiếc không được làm một bác phó rèn. Anh thử nghĩ mà xem: Mình thích làm nghề gì, mà được nghề ấy, thì chắc là nghề mình phải tinh lắm lắm. Giá tôi làm nghề rèn có lẽ tôi đã làm được một cái gì to tát không biết chừng.