Nhụy Mai đi đến cửa rừng, thì gặp một người tiều phu trở ra. Người ấy hỏi rằng:
Cô vào rừng đấy à? Cô vào rừng làm gì? Vào đấy nguy hiểm lắm.
Nhụy Mai cười mà đáp:
Tôi đi tìm cái đền bằng đá. Tôi không sợ nguy hiểm, vì tôi tin rằng ông Thiện vẫn theo tôi.
Nhưng cô sẽ gặp con đười ươi ăn thịt người, cô ạ.
Nhụy Mai không ngờ rằng trong đó lại có đười ươi. Cô rùng mình, nghĩ đến con vật bắt được người cứ nắm chặt hai tay rồi ngửa mặt cho mặt trời lặn đi là ăn thịt. Nhưng lòng cứu cha làm cho cô không biết sợ, do đó lại nảy ra một trí thông minh; cô lặng lẽ tìm cách tránh thoát con vật ghê gớm, cô nhìn quanh quẩn, rồi chỉ vào mấy ống nứa của người kiếm củi mà bảo rằng:
Bác đổi cho tôi hai ống nứa lấy cái thắt lưng vàng này, được không?
Người tiều phu ưng ngay.
Nhụy Mai xỏ hai cánh tay vào hai ống nứa, rồi đi mải miết vào rừng, một chốc đã thấy con đường có cây mốc trắng. Theo đường dài ấy, tiến mãi, cô bỗng thấy một chiếc tổ chim rơi ở trên cỏ, trong tổ có năm quả trứng đang ấp. Tức thì, Nhụy Mai nghĩ đến một con rắn nào đó sẽ ra ăn hết năm quả trứng chim, thành ra con chim mẹ không còn năm con chim non chim chíp nữa. Lòng xót thương khiến cô nâng tổ chim lên, rồi cố trèo mà đặt lên trên cành cây ở cao. Trong khi ấy, từ xa, con chim mẹ bay về. Nhụy Mai nhìn thấy, nói rằng:
Tao không bắt con mày đâu, tao nhặt hộ con mày lên cành đấy, mày đừng oán tao.
Con chim mẹ hót lên mấy tiếng véo von, như đã hiểu mà cảm ơn cô bé.
Nhụy Mai lại đi, không biết rằng con chim rừng kia sau khi thăm lại ổ trứng, cũng bay theo cô ở phía sau.
Một thôi đường nữa, thì Nhụy Mai đã trông thấy cái đền bằng đá dựa vào vách núi. Cô hơi chùn bước, song lại cau mày tự trách mình hơi nhát gan, rồi cắn chặt môi mà quả quyết tiến lên, một bàn tay nắm chặt con dao, một bàn tay khẽ đẩy cánh cửa đền khép hờ.
Cửa tức thì mở toang ra, đã hiện lừng lững một hình thù quái lạ: con đười ươi vàng khè!
Giật mình, Nhụy Mai lùi lại một bước. Cô định vung dao, nhưng không kịp, vì rất nhanh, con đười ươi vừa há hốc cái miệng đỏ lòm mà cười nhởn, vừa rít lên chộp lấy người cô. Nhụy Mai quẫy cựa. Tuy nhiên mặt trời đang soi xuống rực rỡ, con đười ươi đâu dám làm gì! Nó chỉ nắm lấy hai cánh tay, nghĩa là hai ống nứa, rồi ngước mắt nhìn lên trên không, nó đợi buổi chiều tàn, bóng tối lại.
Trấn định tinh thần, Nhụy Mai mừng khấp khởi, vì thấy mưu của mình đã thành. Cô nhìn con đười ươi, biết rằng nó không nhìn mình, nó chỉ nhìn mặt trời không chớp mắt. Cô nhè nhẹ rút tay ra khỏi ống nứa, lùi lại từng bước một rất êm, rón rén. Con đười ươi vẫn ung dung nắm hai ống nứa hờ hững một cách buồn cười mà nhìn mặt trời trên cao. Nó không biết gì hết. Nhưng Nhụy Mai không thể vào đền được nữa, vì con đười ươi to lớn đã đứng chắn hết cửa mất rồi. Cô cũng không dám đâm con đười ươi, tự biết rằng mình yếu sức. Cô chỉ tìm cách leo vào trong đền.
Ở mé tường phía tay phải có một bực tròn bằng đá, nếu đứng lên đấy, thì có thể với bàn tay níu lấy cạnh tường, rồi đặt bàn chân vào hốc đá vách mà leo qua. Nhụy Mai ngắm kỹ, đoạn, trèo lên bậc đá, nhưng, lạ lùng, bực đá bỗng chuyển động, rồi sập một cái, mang cô bé từ cao xuống một đáy giếng tối om, cơ chừng rất sâu.
Con chim rừng vẫn theo Nhụy Mai từ trước, được chứng kiến cái tai nạn ấy, bèn sà qua mặt giếng mà hót lên. Ở dưới đáy giếng, Nhụy Mai nghe vẳng thấy tiếng hót đó, và nhớ ra là giọng con chim chịu ơn của cô. Cô bèn nói vọng lên rằng:
Chim ơi chim, mày bay thẳng về phương Nam, mày tìm lấy ba cây gạo thẳng hàng, có hoa đỏ; ở dưới bóng cây, có một cái nhà chung quanh rào trúc, bên một vườn dâu, ấy là nhà ta. Chim ơi chim, mày sẽ gặp em ta, mày sẽ đưa em ta đến đây, chim nhé!
Con chim như hiểu hết, kêu lên một tiếng, rồi bay vút đi.