ĐÔI GUỐC VỚI CUỘN THỪNG THÒNG LỌNG


Ngồi dưới giếng đá cạn, Nhụy Mai lo lắng chờ con chim khôn ngoan. Cô băn khoăn không biết con chim ấy có tìm được đến nhà mình để báo tin dữ cho Đỗ được chăng. Và nếu Đỗ có tìm tới cái đền bằng đá này, thì không biết con đười ươi còn đứng giữ ống ở cửa đền nữa hay thôi! Nếu còn đứng đấy, tất nguy hiểm cho Đỗ cũng như đã nguy hiểm cho cô, Đỗ làm thế nào để thoát được!

Nhụy Mai cứ suy nghĩ vẩn vơ mãi thế, cho thời khắc qua đi. Đột nhiên, cô mang máng như có tiếng sáo hắt hiu. Cô ngờ đây là tiếng gió thổi qua lau sậy. Nhưng không, tiếng véo von kia càng văng vẳng như gần mãi lại mỗi lúc một rõ, và rõ ràng là giọng sáo mà em cô thường thổi ở nhà.

Mừng rỡ, cô biết rằng Đỗ đã tìm đến nơi và dùng tiếng sáo quen thuộc để làm hiệu gọi chị. Nhưng mà cô còn ở dưới giếng sâu, biết làm cách nào cho Đỗ nhận được!

Nghĩ một lát, Nhụy Mai mỉm cười, cất giọng vàng mà hát. Tiếng hát dần dần cao và to lên. Ấy là những khúc ca dao mà cô thường hát ở nhà mỗi khi dệt cửi, hái dâu.

Vách đá quanh lòng giếng dội tiếng cho vang lên, và đưa thoát ra ngoài miệng giếng, bay vào không khí. Cây cỏ, dưới tiếng sáo vi vu cùng giọng hát giéo giắt, nhường đê mê trong cái im lặng ghê gớm của núi rừng.

Đi ngơ ngác dưới hàng cây mốc trắng, Đỗ tự dưng thấy trong tiếng sáo của mình có lẫn vào một âm thanh gì. Cậu rời ống sáo khỏi miệng, ngừng thổi một lát, để lắng nghe xem sao. Chỉ một thoáng, Đỗ đã nhận ra chính là tiếng hát của chị mình, không thể nào ngờ vực được.

Tĩnh trí để nhận rõ xem tiếng hát đưa từ phía nào lại, Đỗ lần theo hướng ấy mà đi. Càng đi càng thấy tiếng hát sang sảng lên, tỏ ra gần lại. Cậu mừng rỡ, chắc chắn là sẽ gặp được chị mình.

Cứ dò theo nơi phát ra tiếng hát đó, Đỗ đã tới cửa đền bằng đá.

Nhưng con đười ươi không còn đứng giữ ống một cách ngây dại nữa rồi. Cơn mưa vừa qua đã che khuất hết mặt trời, để cho nó có dịp cúi nhìn xuống người mà nó đã bắt. Thì người ấy không còn đó nữa, chỉ trừ hai cái ống nứa hững hờ mà thôi. Đười ươi ta cáu lắm, song cũng chẳng biết làm thế nào, đành lại phải giả vào ngồi canh đền.

Vậy Đỗ tới cửa đền một cách bình yên. Thoạt đầu, cậu bé tưởng tiếng hát đưa ra tự trong đền, đã toan vào đấy. Nhưng cẩn thận hơn, cậu nghe ngóng lại, thì tiếng hát lại đưa ra chính bởi từ mặt giếng đá kề bên bức vách đằng kia.

Đỗ bèn chạy lại đấy. Cậu đã biết rằng Nhụy Mai ngồi hát ở tận đáy giếng tối om. Cúi xuống, cậu to tiếng gọi:

Chị ơi, chị! Chị ở dưới ấy phải không?

Một tiếng vang âm đưa lên:

Em đấy à? Em hãy tìm cách cho chị lên, em ạ.

Đỗ mừng thầm rằng cuộn thừng mình mang theo không phải vô dụng.

Cậu tháo ra, thòng xuống lòng giếng, vừa thòng vừa hỏi:

Chị có làm sao không, hở chị?

Không!

Thế tại sao chị lại ngã xuống giếng này?

Để rồi chị kể cho nghe. Nhưng con đười ươi còn đấy không em? Ghê quá!

Con đười ươi nào?

Con đười ươi ở cửa đền bằng đá.

Em không gặp nó hay sao?

Không! Thôi, chị buộc vào lưng chắc chưa, để em kéo lên?

Chắc rồi. Nhưng có kéo nổi không đã? Cố vào nhé! Đừng có tuột tay mà rơi ngã vỡ óc chị ra.

Được, sức em kéo được. Nào. Xoạc hai chân và đứng thật vững,

Đỗ lấy hết gân kéo dây lên dần dần.

Một sức mạnh không ngờ truyền ra ở hai cánh tay rắn chắc.

Chỉ một lát, Nhụy Mai đã lên được trên bờ giếng đá. Cô vồ lấy em, sự vui sướng không biết nói thế nào.

Đỗ thấy vai áo của chị rách ra, và có vấy máu. Cậu hỏi:

Chết chửa, kìa chị, chị làm sao thế này? Thế mà chị bảo rằng không can chi!

Nhụy Mai cau mày lại mà nói:

Con quái vật nó cào chị đấy. Gớm ghiếc quá! Nó làm chị hoảng cả người.

Đỗ cáu kỉnh bảo:

Được, để nó đấy, em thề báo thù cho chị mới nghe! Nhưng đầu đuôi ra sao, chị hãy kể đi, em sốt ruột lắm.

Nhụy Mai nhìn quanh quẩn, chỉ sợ đười ươi lại ra.

Rồi cô kể vội vàng cho em nghe câu chuyện đi tìm đôi mắt sao băng của Hoàng tử.

Đỗ mừng lắm, nói:

Thế thì em quyết phải bóp cổ kỳ được hai con quạ của lão Ác thần kia, để mà chuộc tội cho cha được và bây giờ, chị theo em cùng vào đền chứ?

Nhụy Mai vội cản em lại mà bảo:

Ấy chớ! Không vào được đâu! Em mà mở cánh cửa nọ ra, thì con đười ươi trong ấy nó sẽ vồ em lập tức. Phải làm cách nào giết được nó đi.

Đỗ ngây thơ hỏi:

Nó có lớn hơn em hay không? Nhụy Mai trợn mắt mà đáp:

Nó to bằng ba em, và khỏe như hùm!

Đỗ thật thà cười, nói rằng:

Thế thì sức em không đánh nhau với nó được. Ta phải dùng mưu vậy.

Nhụy Mai nhìn cuộn dây thòng lọng của em, rồi bảo:

Em làm thế nào mà trói lấy nó, rồi cứ việc bắn cho nó chết, là ổn nhất.

Đỗ bỗng vỗ tay, nói nhỏ:

Chị còn nhớ chuyện lũ khỉ ngửi quạt không? Em chắc đười ươi cũng thế, cũng hay bắt chước những việc của người. Em có bầu rượu đây, để cho nó ngửi mùi thơm của men mà uống vào cho say; nó đã say loạng choạng rồi thì mới dễ quăng dây mà thòng lọng được.

Nhụy Mai gật đầu, lại chỉ đôi guốc mà nói đùa:

Em đem guốc đến để cho đười ươi ta đi hay sao?

Đỗ bỗng nảy ra một ý hay nữa:

À phải! Biếu cả chú ta đôi guốc cho chú ta xỏ chân mà đi. Say rượu lại xỏ guốc thì cho là cứ ngã xiêu ngã vẹo như cụ Lý làng ta, Ha. ha.

Nhụy Mai suỵt miệng:

Này cười vừa chứ, nó ra bây giờ. Hãy sửa soạn đi. Em bạo hơn, em cứ cầm bầu rượu và đôi guốc mà để ở cửa đền kia, đừng sợ. Lúc trước, chị đứng ở cửa đền mà nó cũng chưa biết, chắc tại chị mở cửa nên nó mới ra. Vậy em đừng có mở cửa. Cứ để ở ngoài, tự khắc hơi rượu bốc vào; ngửi thấy mùi thơm là lạ, tất nó ra ngay.

Đỗ theo lời, làm đúng như thế. Tuy đứng ở cửa đền mà đặt bầu rượu xuống, cậu cũng hơi sởn gai mình, nhưng nóng lòng cứu cha thành tan hết sợ hãi.

Xong đâu vào đấy, hai chị em cùng leo vội lên một cây lớn rậm rạp mà ẩn mình.

Gió rừng lùa men rượu bốc qua cửa hé mà lọt vào đền. Đười ươi ta thấy thơm, cái lòng tham lại khởi, bèn mò mẫm nhìn ra. Một quả bầu khô và một đôi guốc gỗ, ai đem để ở đấy bao giờ. Men rượu vẫn ngào ngạt. Đười ươi thèm lắm, mở cửa đền, và cầm bầu rượu lên mà ngửi. Tự dưng, nó nhăn răng ra mà cười, rồi dốc bầu lên miệng, uống một chút, chắc lấy làm hay hay, bèn tu đánh ực một hơi. Men bốc lên đầu làm cho choáng váng, nhưng sung sướng, đười ươi lại cười nhởn mà xỏ chân vào đôi guốc để tập đi như người. Lần thứ nhất, nó khuỵu chân xuống, bực mình, lại thử đi lại. Cứ thế, nó chập chững như một đứa trẻ, nhưng mà ham thích lắm. Cái độ say đã bốc cao, nó đi ngất ngưởng, chân nam đá chân chiêu, mà vẫn không chịu tha cho đôi guốc gỗ.

Con đười ươi vẫn không biết rằng nó ngu dại.

Ở trên cây, Nhụy Mai bụm miệng mà cười. Nhưng Đỗ đã phải làm việc. Cậu cầm cuộn dây, lựa đà, nhằm trúng đích, rồi quăng vút xuống. Như một làn sét lằng nhằng, sợi thừng rơi trúng đầu đười ươi và thòng lọng lấy cổ nó. Nó vẫn nghiêng ngửa, xiêu vẹo mà nhăn răng ra cười. Đỗ giật đầu dây, cổ con vật bị thắt chặt lại; nó vùng ra; nhưng dây đã được buộc kỹ vào một cành cây vững chãi rồi. Rất nhanh, Đỗ lấy cung tên ra bắn. Vút. vút.một, hai, ba. Máu ở mình đười ươi vọt ra. Nó quằn quại, gầm lên, chạy ngang, chạy ngửa, rồi ngã xuống, lại chồm dậy, lại khuỵu xuống, cho đến lúc mệt nhoài.

Biết con vật đã yếu sức, và tên bắn cũng hết rồi, Đỗ leo xuống đất, cầm con dao của chị nó mang đi mà đến chém đười ươi. Ngạt thở vì dây thừng, bị trọng thương vì tên bắn, con vật đành nhận thêm mấy mũi dao nữa để thở hơi cuối cùng.

Hai chị em lần này mở cửa đền mà vào, không gặp sự gì cản trở nữa.