Ấy là thuở trời đất mới lập thành.
Đấng Tạo hóa sinh ra cỏ cây muông thú, để gây màu sắc rực rỡ cho núi sông, và bắt đầu một cảnh sinh hoạt luôn luôn thay đổi.
Tuy nhiên, loài người chưa có.
Ngày nay, người ta vẫn tin cái thuyết ông tổ loài người trước kia là giống khỉ. Thuyết ấy có thể cho là đúng, theo như câu chuyện cổ tích tục truyền này. Bởi vì người ta nói rằng Tạo hóa sinh ra muôn vật trước hết, sau mới sinh đến loài khỉ vượn, và sau cùng mới sinh ra giống người.
Truyện này bắt đầu kể từ lúc những con khỉ tinh ranh nảy nở trong miền núi mà cây cỏ đã mọc thành rừng. Tạo hóa chưa thỏa cái ý muốn ghê gớm của mình, bèn sai mười hai bà Mụ lấy sự kinh nghiệm sau khi đã nặn từ giống phù du, cụ thể là con vờ mỏng mảnh cho tới giống vượn tinh ranh, mà nặn ra một loài động vật khác khôn ngoan và thông minh hơn loài khỉ kia nhiều.
Mười hai bà Mụ định nặn ra giống người biết suy nghĩ và có tiếng nói, nhưng tại vụng về, nên chỉ tạo thành một giống dư sức mạnh và trí khôn hơn loài khỉ mà sau này người ta gọi là đười ươi.
Đười ươi cũng đi hai chân, và hình thù vóc dáng gần giống với những dân về đời thượng cổ, duy mình mẩy lông lá hơn nhiều, hai con mắt đỏ xọng, hàm răng bàn cuốc vẩu ra, tiếng cười nhiều ý ác hơn là tính thiện.
Mười hai bà Mụ đem hai con đười ươi đầu tiên, một đực, một cái trình với Tạo hóa, để tùy quyền ngài định liệu. Tạo hóa chưa được thỏa mãn về công trình ấy, nhưng cũng cứ thả cặp đười ươi vào trong rừng Phép Màu, cho sống bằng các thứ quả lạ, những quả thơm hằng trăm năm mới có một lần. Tạo hóa định rằng bao nhiêu tinh túy của rừng Phép Màu sẽ có hiệu lực thay đổi dần bộ óc của đười ươi cho sạch hết tính chất loài khỉ.
Ở trong rừng Phép Màu, có một cây Bàn đào bà xòa hơn ba nghìn dậm, cành lá rườm rà xanh tốt, không hề vàng héo bao giờ. Cứ đủ sáu nghìn năm, cây ấy mới ra hoa một lần, và sau kỳ hoa nở ba nghìn năm nữa mới kết thành quả, quả chín không to được hơn quả bưởi, nhưng có một sắc hồng như ráng trời buổi chiều, với một chất ngọt không giống trái cây nào, và một khí vị thần tiên làm cho sức mạnh và trí khôn phát triển.
Khi hai con đười ươi vào ở trong rừng, thì cây đào đang thời kỳ kết quả, Tạo hóa sợ rằng chúng phá hoại mất những trái xanh của cây bàn đào, bèn ra một lệnh rất nghiêm, cấm không cho chúng được ngắt một chiếc lá, một trái non nào của cây quý báu ấy.
Chỉ trừ có giống bàn đào, còn ngoài ra, bất cứ hoa thơm quả lạ nào, hai con đười ươi cũng có quyền hưởng để hy vọng một ngày kia đủ thông minh mà nên được loài người.
Nhưng lòng tham vốn vô độ. Chính cái lòng tham nguy hại ấy đã xúi giục đôi mắt thèm khát của đười ươi luôn luôn nhìn cây đào xanh ngắt những chiếc lá nhỏ che khuất những quả chắc là rất thơm, rất tươi.
Tuy vậy, chúng chỉ đành nuốt nước miếng, chứ chưa dám trái lời dặn của Tạo hóa là đấng quyền phép cầm vận mệnh chúng ở trong tay.
Cây Bàn đào cao lớn kia vốn có một cành thấp rủ xuống, ngọn chĩa về phía Đông Bắc của rừng Phép Màu, uốn lại khum khum như một cái cửa tò vò. Cửa ấy um tùm, rậm rạp, và có tên gọi là Quỷ Môn; gọi thế, bởi vì ma quỷ bấy giờ thường thường vẫn lấy cái động Bàn đào kia làm sào huyệt.
Tuy bọn quỷ dữ hay làm ác, nhưng hai vị thiên tướng là Thần Đồ, Uất Lũy, giữ trách nhiệm coi sóc chúng, không bao giờ để chúng được phá hoại đến cây Bàn đào, dù chỉ là một sự đụng chạm cỏn con làm rách một vài cánh lá nhỏ chẳng hạn.
Nhưng trò đời không được ăn thì đạp đổ. Mang cái thói xấu đó, loài ma quỷ ranh mãnh xúi giục hai con đười ươi trái lệnh Tạo hóa đã ban, Quỷ bảo đười ươi rằng:
Trong cây đào có quả, quả ấy ăn vào thì được trường sinh và sẽ hóa thân thành một giống khác đẹp đẽ khôn ngoan hơn. Trời đã sinh ra các ngươi là bậc nhất trong loài vật, sao lại cấm không cho ăn quả Bàn đào? Có lẽ rằng quả ấy để dành cho một giống khác hơn cả các ngươi đấy chăng? Vậy các ngươi hãy ăn những quả cấm đó đi, mà hóa thân ra cái giống Tạo hóa định sinh ra sau này; như thế, giống ấy sẽ không có nữa, và trên mặt đất, chỉ có các ngươi là mạnh khỏe nhất, khôn ngoan nhất mà thôi!
Đười ươi nghe quỷ xúi giục, không còn nhớ gì đến lời đã dặn của Tạo hóa, bèn cứ mạn phép mà làm thỏa cái lòng tham của mình.
Hai con vật rủ nhau leo lên cây, và đánh mũi hưởng lấy mùi thơm của hương đào. Sự thơm tho làm chúng lại càng thèm khát hơn lên. Tuy nhiên, những cử chỉ vụng trộm bao giờ cũng sợ sệt, phấp phỏng. Tạo hóa như đang ngự sáng quắc ở giữa mặt trời, và theo ánh thái dương, đang để mắt soi rọi những hành vi của muôn vật.
Tự nhiên, đười ươi thấy rùng mình.
Chúng không nhảy nhót nữa, chúng nắm chặt lấy cành cây và ngửa mặt mà nhìn mặt trời đỏ ối lừng lững trên không xanh. Anh nắng làm chúng chói mắt. Chúng lại cúi xuống. Tiếng quỷ sứ văng vẳng từ dưới đất đưa lên:
Trái đào mườn mượt, sao không hái đi.
Đười ươi nhìn những quả đào tươi. Nắng đang cháy trên da đào mịn màng, bóng sáng. Đười ươi nuốt nước miệng, bàn tay như bị hút bởi cái sắc xanh nõn của trái cây.
Tiếng quỷ sứ lại réo rắt như ca:
Ăn quả đào cấm, sống vượt muôn loài, kìa quả đào ngọt, vừa thơm vừa tươi.
Con đười ươi đực không nhịn được nữa, khi thấy con đười ươi cái cứ đưa mắt lóng lánh ra hiệu giục hái đi. Nó bèn bạo tay ngắt một quả đào.
Tức thì, cả cây đào rung động hẳn lên như bị trận cuồng phong. Lá rơi như mưa rào. Sợ hãi, nhưng tiếc rẻ, đười tươi cắn với một miếng đào, nuốt đi, và đưa cho con cái ăn nốt nửa quả còn lại.
Song, cả hai đều nhăn nhó, kêu lên chi chí. Bởi quả còn xanh, còn đắng, một thứ nước chát ghê gớm làm tê cả lưỡi, và se sắt ruột gan.
Khi Bàn đào chưa đủ sương nắng để chín, thì nó không có một tính chất gì khác với những trái cây thường. Vậy cái lòng tham của đười ươi đã xúi giục nó làm một việc vô ích, hơn nữa, lại có hại vào mình.
Chỉ vì cây đào rung động đã báo cho hai vị thiên tướng biết việc vừa xảy ra. Thần Đồ và Uất Lũy tóm ngay được hai con đười ươi trộm quả còn ở trên cây. Chúng nhăn nhó, lạy van, và tố cáo kẻ đã xúi giục chúng làm bậy.
Thần Đồ và Uất Lũy bèn lập tức bắt loài quỷ độc ác kia bỏ vào rừng dữ cho hổ đói ăn thịt. Vì vậy, mà về sau người ta thường vẽ hai vị thiên tướng ấy dán ở hai bên cánh cửa để trừ quỷ dữ mỗi dịp tết đầu năm.
Đấng Tạo hóa biết chuyện đười ươi đã phạm vào quả cấm, bèn đuổi ra khỏi rừng Phép Màu. Và để trừng phạt sự không vâng lời cùng lòng tham lam, Ngài bắt đười ươi phải chịu khổ sở, muôn nghìn đời mãi mãi lại trở về chịu chung một giống con thú tính như khỉ vượn mà thôi.
Từ đó, đười ươi sống mòn mỏi ở trong những miền núi rừng man dã, và sinh lòng thù ghét loài người là giống thông minh bậc nhất mà mười hai bà Mụ đã nặn thành sau khi đã đuổi hai con đười ươi khỏi rừng Phép Màu. Sự thù ghét ấy khiến nên mỗi khi gặp người là đười ươi phải ăn thịt cho kỳ được. Tính ác đó truyền lại đời đời…
Nhưng dù sao, đười ươi vẫn sợ uy phép của Tạo hóa. Vì thế, mỗi lần bắt được một người nào lạc lõng vào rừng, nó không dám cấu xé ngay, chỉ nắm chặt lấy hai cánh tay mà giữ chặt ở một chỗ. Rồi đười ươi ngửa mặt mà nhìn mặt trời, nơi ngự trị của Hóa công. Ở vừng sáng lồng lộng ấy, nó như nhận rõ thấy bóng dáng chí tôn đã sinh ra nó và vẫn nhìn rõ những hành vi của nó để trừng phạt nó. Cho nên tay vẫn nắm lấy mồi, mà đười ươi không dám nhìn xuống; nó phải chờ khi buổi chiều đã xế, mặt trời lặn rồi, tức là lúc Tạo hóa đã yên giấc ngủ, mới dám cúi xuống bắt đầu cấu xé xác thịt kẻ chẳng may kia.
Nhưng tuy trời không trừng phạt cái thói ăn thịt người của đười ươi, người cũng đủ khôn ngoan và thông minh để tự cứu thoát lấy mình. Cho nên từ đời kiếp nào đến giờ, mới truyền tụng mãi câu đười ươi giữ ống. Ấy là một chuyện ngày xưa.