Ngủ trưa dậy thấy người nhà vào phòng mời sang bên ông Tuần uống nước chè, Dũng đoán chắc có chuyện gì lạ. Nhưng ngồi uống nước đã gần tàn ấm chè, Dũng cũng chưa thấy cha mình nói gì.
Trước mặt chàng, những chậu sứ trồng lan xếp đều đặn thành mấy hàng cạnh núi non bộ. Quả núi ấy, nguyên một tảng đá, ông Tuần đã bỏ ra mấy trăm bạc để mua lại của một người Tàu. Đối với Dũng khi còn nhỏ, quả núi với những khe đá hiểm hóc, những chòm cây um tùm là một thế giới thần tiên đầy bí mật. Đã bao nhiêu lần chàng đứng hàng giờ ngắm nghía không biết chán; chàng thường chỉ cho Loan và những trẻ bên hàng xóm xem một con đường ở sát mặt nước đi khuất vào trong bóng tối một cái hốc đá; chàng bảo đó là đường vào Đào Nguyên và tả cảnh Đào Nguyên lại cho Loan nghe theo như lời ông Tú đã kể chuyện với chàng. Ngay từ lúc còn nhỏ, chàng đã có cái ý muốn rời khỏi nhà để đi tìm cảnh Đào Nguyên đẹp đẽ. Có khi đêm khuya, sức thức dậy, chàng chạy ra nhìn con đường ấy xem có xảy ra sự gì lạ không. Dưới ánh trăng, hai ông tiên ngồi đánh ván cờ thiên cổ; chàng tưởng họ vừa ngừng đánh và ngạc nhiên nhìn chàng. Mấy con cá vàng lên đớp ánh trăng trên mặt nước, dưới những cụm sương bồ ướt sương, chàng cho là những con vật kỳ quái biết cử động giữa một thế giới yên lặng nhưng có linh hồn.
Nhớ lại, Dũng mỉm cười. Sau bao nhiêu năm, chàng vẫn còn ở nguyên chỗ cũ. Núi non bộ với những người chăn trâu, những ngôi chùa, những tiều phu bằng đất nung chàng thấy không có gì là thần tiên nữa, có vẻ ngờ nghệch, vụn vặn, trẻ con.
Dũng uống cạn chén nước, nhìn ông Tuần, toan đứng dậy.
Anh hãy ngồi đây tôi nói câu chuyện đã.
Dũng biết là cha mình đã nghĩ lâu lắm về câu chuyện sắp nói. Ông phải nói ra chắc vì ông đã tức tối lắm không thể nén được nữa. Nghĩ vậy nên Dũng định cố sức giữ vẻ mặt bình tĩnh khi phải nghe lời trách mắng của cha.
Ông Tuần nói:
Anh đã nhớn rồi, anh phải liệu lấy thân anh, cho tôi khỏi phải lo.
Bà Hai rút ống vôi, ngửa mặt, quệt vội chiếc que vôi vào lưỡi, rồi vừa nhai trầu vừa nói:
Ông nói làm gì. Tôi đã mấy lần nhờ anh Cả khuyên anh ấy thôi đi mà anh ấy có nghe đâu.
Bà cười và nói tiếp theo giọng đùa bỡn và cố làm như âu yếm để cho Dũng khỏi giận mình:
Tôi chịu ông tướng cứng đầu cứng cổ nhất nhà. Ngay từ hồi còn bé đã thế rồi.
Ông Tuần ngắt lời vợ:
Bà để tôi nói nào. Tôi không muốn mang tiếng có một người con du đãng.
Dũng quay lại phía ông Tuần, dạ khẽ một tiếng làm như chưa nghe rõ lời cha. Ông Tuần nói luôn:
Độ nay anh bỏ cả học hành, đi bè bạn với những bọn du thủ du thực, anh làm lây tiếng xấu cho cả họ.
Dũng toan nói phân trần để bênh vực những người bạn, nhưng ông Tuần gạt đi:
Anh đừng cãi. Tôi biết lắm. Anh làm việc gì mà tôi không biết. Dẫu sao thì tôi chỉ muốn anh ở nhà nghĩ đến sự học hành cho nên người xứng đáng. Người ta trông vào, tôi không thẹn. Anh đã nhớn, tôi mong anh biết nghĩ và anh đừng để tôi nói nhiều.
Ngừng một lát, ông tiếp theo:
Nhất là giữa lúc này. Anh muốn tương lai anh khá thì anh phải để yên cho tôi cố sức lo lắng cho anh mới được.
Muốn khỏi cãi lại ông Tuần, Dũng cầm ấm nước rót vào chén. Chàng thấy tay chàng run run. Biết là một phút rất nghiêm trọng, Dũng phải cố sức giữ cho lòng được thản nhiên. Lời mắng của ông Tuần chàng cho là không quan hệ gì; ông Tuần khuyên chàng học chăm chỉ thì chàng sẽ học chăm. Nhưng sự xung đột của chàng với ông Tuần ngấm ngầm đã từ lâu rồi; những sự trái ngược, những cái mà chàng ghét, những việc khiến chàng khó chịu đến nỗi bỏ cả học, Dũng biết là ông Tuần không sao hiểu được. Chàng không phải làm việc gì, sống sung sướng nhàn nhã hơn một năm giời, đối với ông Tuần, chàng không có quyền được phẫn uất. Nếu ngay lúc này nói ra, chắc ông Tuần không chịu nghe, ông sẽ nổi giận mắng chàng là con bất hiếu, có lỗi mà không chịu nghe lời cha, rồi câu chuyện nhỏ sẽ thành to.
Dũng đưa mắt nhìn ra vườn hoa. Trong một chậu sứ, giữa mấy hòn đá cuội trắng, một chồi lan mới nhú lên, bóng và sạch như một lưỡi gươm. Một cơn gió thoáng qua nhẹ đưa đẩy những ngọn lá dài và làm lấp lánh ánh sáng ở chỗ lá cong cong rủ xuống. Dũng ngắm nghía những giò hoa trắng xanh mềm mại lẫn trong đám cuống lá. Chàng thở dài, trong người nhẹ nhõm và từ lúc đó chàng biết chắc là sẽ không xảy ra chuyện gì nữa.
Dũng không đáp lại lời ông Tuần. Chàng cố ngồi rốn lại để làm như chàng còn muốn nghe lời cha dạy nữa. Trước sự yên lặng của Dũng, ông Tuần ngượng không nói được nữa. Nhưng ông vẫn tức bực như thường. Giá Dũng cãi lại, ông có dịp nổi giận nói to và mắng tàn tệ, thì có lẽ ông mới hả được nỗi tức bực ngấm ngầm bấy lâu. Ông Tuần đã toan nói cho Dũng biết về việc hỏi Khánh, nhưng lại thôi. Bà Tham Hiệu có nói với ông tỏ ý chê Dũng chơi bời lêu lổng. Ông sợ nói cho Dũng biết, nhỡ về sau việc không thành, ông sẽ ngượng với con.
Ông Tuần gọi người nhà bảo pha thêm nước rồi ông với cái điếu khảm. Anh người nhà chạy lại thông điếu, đặt thuốc rồi đánh diêm.
Ông hút một hơi dài rồi gắt:
Thằng này hỏng. Khi cháy thuốc, mày phải bỏ diêm ra cho khỏi nóng chứ.
Ông quắc mắt nhìn người nhà một cách độc ác:
Thôi, cút xuống dưới nhà.
Cho đỡ khó chịu, Dũng bảo người nhà:
Bận sau phải nhớ kĩ lấy.
Dũng quay mặt đi. Tự nhiên, Dũng thấy hiện ra trước mặt cảnh một công đường khi ông Tuần còn làm Tri phủ. Một hôm vào công đường, chàng sợ hãi ngừng lại: Cha chàng đương dập đầu một người nhà quê vào tường và tát luôn mấy cái nữa mặc dầu trán và má người kia đã ướt đẫm máu. Ông Phủ quay lại bảo lính lấy thau nước và khi trông thấy chàng, ông gắt:
Ai lại cho nó vào đây?
Hồi đó chàng còn nhỏ, nhưng sau mười mấy năm, chàng vẫn còn thấy rõ trước mắt, tuy chàng vẫn cố hết sức quên đi.
Dũng cầm chén nước xoay trong tay, mặt cúi nhìn xuống nền gạch. Bà Hai bảo:
Anh đưa chén đây, tôi rót nước.
Dũng biết là xong chuyện. Chàng đỡ lấy ấm nước, đứng dậy rót đầy chén, uống một hơi cạn, rồi bước xuống sân.
Khi qua vườn, chàng rứt một bông hoa đơn rồi cầm lấy nhị hoa đưa lên miệng thổi mạnh cho bông hoa quay như chong chóng. Chàng cố mê mải với cái trò chơi ấy để khỏi nghĩ ngợi lôi thôi.
Lạy cậu ạ.
Dũng ngửng lên và khi thấy Hai Lẫm, chàng quắc mắt nhìn rồi đi tránh ra một bên. Lẫm chắp hai tay trước ngực vái chàng luôn mấy cái, giọng nói sặc mùi rượu:
Bẩm, con sang hầu cụ lớn. Hôm nọ cụ lớn mệt, con vào mấy lần hỏi thăm, mợ Hàn không cho vào.
Hai Lẫm vừa đi theo Dũng vừa lải nhải.
Dũng nói:
Say rượu bí tỉ thế kia, vào cụ đánh cho đấy.
Bẩm cụ lớn đánh là cụ lớn thương. Hôm thượng thọ cố, cụ lớn cầm đầu con dập vào tường mấy cái đau chết cha chết mẹ, sưng bươu cả đầu lên. Thế mới biết cụ lớn còn khỏe. U cháu bảo: con còn uống rượu thì còn bị đòn. Nhưng hôm ấy con có uống đâu.
Dũng bật cười nói:
Hôm nay cũng không uống?
Chàng đi thật mau để cho Hai Lẫm không theo kịp. Câu nói của Lẫm nhắc chàng nghĩ lại một lần nữa cái cảnh ở phủ đường mười mấy năm trước. Chàng không khó chịu vì cha mình độc ác đánh người, chàng khó chịu vì những người bị đánh không kháng cự lại, không lấy thế làm nhục.
Có lẽ cha mình không độc ác. Có lẽ vì quen tay, thấy dễ tức thì cứ tức, dễ đánh thì cứ đánh.
Dũng nhận thấy rằng sở dĩ những lúc tức giận chàng không dám đánh ai, vì cứ tưởng đánh thì người bị đánh sẽ kháng cự; cha chàng dễ đánh người ta vì đã biết chắc người dưới sẽ yên lặng chịu đòn.
Tìm được cách giải nghĩa cử chỉ của cha và đổ lỗi cho những người bị đánh, Dũng thấy trong lòng hơi yên tĩnh.